Thế hệ thanh niên 4X, 5X ngày đó đâu dễ gì quên mùa hè xanh và hàng vạn lá đơn tình nguyện xin gia nhập TNXP của tuổi trẻ cả nước gửi về các cấp bộ Đoàn từ Trung ương đến địa phương. Những lá đơn được viết bằng máu “Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần đến…” và còn nắn nót 6 chữ vàng xin thề “Hoãn yêu, hoãn cưới ba năm”. Sau đó là những cuộc hành quân “nào cuốc, nào choòng, xoong nồi xủng xoảng” diễn ra khắp nẻo “Đường ra mặt trận”:
“Những ngày vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục
Xóm dưới làng trên, con trai con gái,
Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau
Súng nhỏ súng to, chiến trường chật chội
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu…” (1)
Tiểu đội 4 - C552 được thành lập từ tháng 6/1965 với số lượng biến động từng thời kỳ từ 14 đến 16 chị em, tuổi đời từ 17 đến 24. Trước khi Võ Thị Tần được đề bạt A trưởng, Hồ Thị Cúc - A phó thì A trưởng A4 đã do nhiều đồng đội của Tần, Cúc đảm trách. Chỉ có điều, dù ai đứng đầu thì A4 vẫn luôn là một tập thể đoàn kết, thương yêu nhau, luôn giữ vững truyền thống chim đầu đàn của đơn vị. Nào Hạ Vàng, Cổ Ngựa, Thượng Gia (QL1) đến Địa Lợi, Khe Ác, Khe Mơ (QL15A) đều có dấu chân họ.
MV “Cúc ơi!” của NSƯT Tố Nga, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Đồng Lộc (24-7-1968-24-7-2018) và tri ân 10 nữ liệt sĩ thanh niên xung phong. Nguồn: Youtube
Quên sao được những ngày đêm mưa rừng, bão đạn. Tần, Cúc, Nhỏ, Xuân, Hợi và đồng đội đã bao lần “Đi dưới trời khuya sao đêm lấp lánh, tiếng hát em lay động cây rừng. Phải chăng em cô gái mở đường, không thấy mặt người mà chỉ nghe tiếng hát”. Những năm tháng gian khổ mà vui. Rồi vinh dự lớn cũng đến, ngày 3/2/1967, cả Tần và Cúc đều được đứng dưới Đảng kỳ, nắm tay thề tuyệt đối trung thành với tổ chức, với nhân dân và nguyện suốt đời hy sinh, cống hiến vì lý tưởng cao cả. Tháng 4/1967, Tần được đề bạt A trưởng A4 và Cúc làm A phó. Đơn vị được điều về đảm bảo giao thông đoạn eo thắt cổ chai của quốc lộ 15A từ cống 19 vào Tùng Cốc. Biết bao đêm pháo sáng xoe xóe trên đầu, máy bay gầm rít long óc, nào bom phá, bom nổ chậm, hẹn giờ, bom bi, từ trường ken dày đường sá, cầu ngầm nhưng không át nổi tiếng hò, tiếng hát của A4 với cánh lái xe, bộ đội hoặc các tiểu đội nam cùng đơn vị.
Võ Thị Tần, Võ Thị Hợi cũng như một số chị em cùng tiểu đội, trước lúc gia nhập TNXP đã là cán bộ Đoàn, kiện tướng bèo hoa dâu, xã viên hợp tác xã nông nghiệp, Trần Thị Hường, con liệt sỹ Trần Đông đã là cô dân quân trực chiến từ trận Rú Nài, sau đó thoát ly làm công nhân trại màu một dạo. Tần vui vẻ, yêu đời, nhanh nhẹn, tháo vát, đa cảm, thẳng thắn. Mười tám tuổi, Tần đã là lao động chính của gia đình. Tần có một mối tình nảy nở trong lao động thật đẹp đẽ. Cha mẹ Tần đã nhận cau trầu ăn hỏi của nhà anh Nguyễn Đình Hồng cùng xóm. Tục quê như rứa là Tần đã có chồng. Rồi anh Hồng đi bộ đội vào chiến trường B được gần một năm thì Tần cũng gia nhập TNXP. Lọn tóc thề và tấm ảnh Tần tặng anh ngày lên đường coi như lời hứa đinh đóng cột, hẹn 3 năm sau về làm lễ cưới.
Nữ TNXP ở ngã ba Đồng Lộc, năm 1968. Ảnh tư liệu
Tần quý Cúc như ruột thịt, Tần cũng thương Nguyễn Thị Nhỏ vô cùng. Cha mẹ Nhỏ mất khi chị Miên mới 7 tuổi, Nhỏ lên 3, biết nói, chưa biết đi. Ông chú đưa hai chị em về nuôi, nhưng nhà chú quá nghèo không nuôi nổi, một thời gian sau, chú dựng cho hai chị em túp lều rìa làng và tự nuôi nhau. Hai chị em lớn lên, chị lấy chồng nhưng không về nhà chồng mà ở lại nuôi em khôn lớn. Rồi anh Hùng chồng chị đi bộ đội hy sinh trước khi chị Miên sinh cháu. Nhỏ gia nhập TNXP, còn lại mẹ con chị Miên với đường tàu bỏ hoang Đức Lạng.
Hồ Thị Cúc, bạn bè trong tiểu đội đặt cho biệt danh “Cúc mục” vì Cúc nhỏ thó, tóc loe hoe xoăn, mắt hay nhìn xuống, mặt buồn, sống nội tâm. Cúc sinh vào năm 1944, lên một tuổi, cha và bà nội chết đói năm 1945, ông nội đưa hai mẹ con về nuôi. Lên ba tuổi, bà Trinh - mẹ của Cúc tái giá, Cúc được ông nội và o Loan nuôi. Rồi ông nội mất, o Loan xây dựng gia đình, chú Dũng đi bộ đội phục viên về lấy vợ và nuôi Cúc. Cúc bé choắt nhưng lam làm, chịu khó. Ngoài A phó, Cúc còn thêm chức vụ vệ sinh viên lo thuốc men, bông băng, thuốc đỏ cho tiểu đội. Cũng như Tần, Cúc được cả đơn vị thương yêu, cả tiểu đội tin tưởng, nể phục.
Cứ thế, cả 16 chị em, Tần hiểu hết hoàn cảnh riêng mỗi người, nên hễ có o mô dao động tư tưởng là Tần lại thủ thỉ: “Tối ni về cho tau ngủ chung với mi nhé!”. Sau đêm ngủ chung ấy, không biết “thủ trưởng” làm tư tưởng kiểu gì mà từ đó o ta hoạt bát, phấn chấn hẳn lên.
Không chỉ Tiểu đội 4 - C552 - N55 - P18 mà những thế hệ TNXP chống Mỹ cứu nước nói chung, họ đặt niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Họ sống vì Tổ quốc, làm vì nhân dân. Họ khát vọng sống, nhưng sự sống mong manh như sợi chỉ. Họ khát vọng yêu, nhưng nào ai đã được yêu, coi đơn vị là tổ ấm gia đình, vui vẻ, yêu đời, lạc quan cách mạng. Hàng ngày khi có tiếng còi Đại đội trưởng cất lên là hàng trăm cô Tấm “lột vỏ thị” trở thành công binh, san lấp hố bom, lát đá chống lầy, mở đường tránh, hộ tống xe… tay làm, miệng hát. Tan tầm lại “chui vào vỏ thị” trong những lán tạm học bổ túc văn hóa, tập văn nghệ, viết thư hoặc vùi đầu vào thêu đôi chim dưới có dòng chữ “Hẹn anh ngày ấy…”, “Chờ ngày thống nhất…”.
Sau tuyên bố của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn “Ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra” từ 0 giờ ngày 1/4/1968, Thường vụ Tỉnh ủy nhận định chúng sẽ tập trung đánh QL 15A, trọng tâm đoạn qua Hà Tĩnh. Tất cả các lực lượng được điều về trấn giữ Đồng Lộc. Riêng Đại đội 552-N55-P18 của Tần được điều từ đường 28 (Phú Lộc) về đảm bảo giao thông đoạn phía Nam cầu Tối - Ngã ba Đồng Lộc - Truông Kén. Tiểu đội 4 của Võ Thị Tần ra mặt đường mạn Bắc Đồng Lộc và đường 28 đã quen bom đạn kẻ thù, đã đổ biết bao mồ hôi và máu xuống mảnh đất này, bao bộ quân phục màu xanh cỏ úa bị mồ hôi tẩy thành màu trắng. Chiều 24/7/1968, đường qua Đồng Lộc tắc xe, 40 xe bồn loại 4,8 m3 chở xăng vào chiến trường đang nằm chờ đường ở bãi giấu xe. Lệnh đồng chí Trần Quang Đạt - Phó Chủ tịch tỉnh - Trưởng ban giải tỏa Đồng Lộc yêu cầu các đơn vị làm thêm ban ngày để kịp thông xe. Tiểu đội Tần được đơn vị điều động đi làm ngày, vừa san lấp hố bom, vừa đào hầm chữ T để đợi Lê Thị Hồng chở gỗ rong đanh về làm hầm Triều Tiên.
Đường Đồng Lộc - Đường Khe Giao năm 1968 (ảnh trên) và Ngã ba Đồng Lộc hôm nay (ảnh dưới).
Tại thời điểm này, Tiểu đội 4 có 16 người nhưng hôm đó có 3 người được cử đi lấy dụng cụ ở Nga Lộc, 1 người được điều làm cấp dưỡng đơn vị, Bùi Thị Tịnh bổ sung cho tổ công binh và Lê Thị Hồng đang đi chặt gỗ ở đường 21 về làm hầm. Còn lại 10 người ra mặt đường hôm ấy. Đúng 14 giờ, cả tiểu đội có mặt tại đường 15A cạnh chân núi Trọ Voi. Tần và 9 chị em vừa đào xong hai hầm chữ T giao nhau, cách mép đường phía Tây khoảng 15m. Cúc nhận đào chiếc hầm tròn cá nhân. Hai đợt máy bay Mỹ quần đảo dội bom xuống hiện trường rồi bỏ đi, cả tiểu đội an toàn. Đợt thứ ba có một tốp 3 chiếc F105, F4H lao đến, Tần cho chị em ẩn nấp, lần này chúng không dội bom mà quần đảo mấy vòng rồi quay đầu ra biển Đông. Bỗng nhiên một trong ba chiếc lù lù quay lại. Tần hô chị em xuống hầm cấp tốc, Tần vào sau cùng. Tất cả nháo nhào lao vào hai chiếc hào dài vừa đào xong chưa có nắp đậy. Và một quả bom tấn từ máy bay lao xuống nổ trùm lên cả tiểu đội, lúc ấy là 16h ngày 24/7/1968.
Các cựu TNXP, cựu chiến binh dâng hương, hoa tưởng nhớ các nữ anh hùng thanh niên xung phong hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc.Ảnh: Nam Giang
Sau hai tiếng đồng hồ vừa đào, vừa khóc, lúc mặt trời khuất trên eo núi Trọ Voi, hoàng hôn bắt đầu buông xuống thì đồng đội mới bới tìm được thi thể các cô. Lần lượt bới lên 6 người ẩn nấp hầm ngoài cùng là Nguyễn Thị Xuân (xã Vĩnh Lộc), rồi đến Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hà, Trần Thị Rạng và cuối cùng là Trần Thị Hường. Đào tiếp hầm thứ hai vuông góc với hầm lúc nãy lại tìm thấy Dương Thị Xuân, Võ Thị Hợi và Hà Thị Xanh cũng đã tắt thở. Cả 9 người được đặt lên 9 cáng xếp một hàng ngang như khi còn sống tiểu đội tập hợp. Riêng Hồ Thị Cúc - Tiểu đội phó không tìm thấy. Đêm 24/7, theo lệnh đồng chí Trần Quang Đạt, 10 cái hòm cấp táng được chở về, đơn vị cho khâm liệm và mai táng cả 9 cô sau eo núi Bãi Dịa. Ngày 25/7/1968, trong khi đang bới tìm Hồ Thị Cúc thì một A4 mới được thành lập gồm: 6 người A4 cũ và một số đồng chí mới điều sang cho đủ 10 người do Nguyễn Thị Hợi làm A trưởng, Lê Thị Hồng làm A phó để kịp dâng hương trong đêm truy điệu. Những ngày này, không chỉ Đại đội 552 mà cả Đội N55, Ty Giao thông, Tỉnh đoàn và lãnh đạo tỉnh chìm trong đau thương.
Hết buổi sáng ngày 25/7, Ty Giao thông vận tải điều máy ủi ĐT 54 ra đào tìm Hồ Thị Cúc. Chi bộ C552 do đồng chí Nguyễn Hải Đường làm Bí thư họp đột xuất, ra nghị quyết cho đơn vị tiếp tục đào bằng tay để tìm đảng viên Hồ Thị Cúc và không cho phép đào bằng máy vì sợ ảnh hưởng đến thi thể người đồng chí thân yêu của mình.
Chiều 25/7, tức ngày thứ hai đào tìm Hồ Thị Cúc, tôi vào nhà C trưởng Nguyễn Thế Linh, nhìn thấy cái hòm cấp táng còn lại đã được chuyển ra đầu hồi nơi vườn tro nhà ông Biểu (bố Nguyễn Thế Linh). Tôi bồi hồi thương tiếc nghĩ về số phận hẩm hiu của Hồ Thị Cúc. Sống đã khổ, chết rồi vẫn khổ, tôi nấc lên rồi ra ngồi bên hòm Cúc viết bài thơ tạm lấy tên là “Hồn trinh nữ ở đâu?”. Viết sau hai tiếng thì xong, chần chừ vì đề bài xa lạ nên tôi sửa thành “Cúc ơi!” rồi giấu vào túi áo.
Trích đoạn tân cổ dân ca Nghệ Tĩnh "Em ở nơi mô" - Thể hiện: Văn Sang.Nguồn: Youtube
Sáng hôm sau, tôi và đồng chí bí thư ra ngay hố bom nơi đang tìm Cúc. Cả hai đứng nghiêm trang thắp hương trên chiếc bàn nhỏ có bát cơm úp và lọ hương là một đoạn thân cây chuối đang cháy dở. Tôi cầm giấy đọc rất nhỏ đủ mình nghe cả bài thơ “Cúc ơi” rồi đốt đi, anh Hải Đường - Bí thư đứng bên cạnh tôi chắc cũng nghe được. Xong đó, cả hai chúng tôi quay về đơn vị lúc đó khoảng 8 giờ hơn. Đến gần 10 giờ thì được tin Tiểu đội 8 Trần Triện đã tìm được thi thể Hồ Thị Cúc. Cúc ngồi trong chiếc hầm tròn chiều hôm trước do tay Cúc đào, đầu đội nón bẹp dí, vai còn vác cuốc. Hai tay Cúc bầm dập, máu đọng lại đã khô.
Những chuyến xe vượt qua Ngã ba Đồng Lộc vào chi viện cho chiến trường miền Nam (Ảnh tư liệu).
Đêm 26/7/1968, sau khi làm lễ hạ huyệt cho Hồ Thị Cúc là lễ truy điệu Tiểu đội 4 được diễn ra tại sân kho hợp tác xã. A4 mới xếp hàng dọc do Nguyễn Thị Hợi dẫn đầu, Lê Thị Hồng đi sau cùng (đúng vị trí Cúc đứng mỗi lần tiểu đội tập hợp hàng dọc) lên dâng hương. Cả đơn vị, cán bộ Đội N55, có cả lãnh đạo, cán bộ Ty Giao thông, cán bộ Tỉnh đoàn và bạn bè đồng hương các o đều có mặt để vĩnh biệt 10 đồng đội vô cùng thân thiết mới ngày nào chiến đấu bên nhau. Rất tiếc rằng, giờ phút long trọng trang nghiêm này, tôi phải đi chỉ đạo đảm bảo giao thông ở Đại đội 551 tại Khe Giao về không kịp nên không đọc được bài thơ “Cúc ơi” trước hương hồn đồng đội.
Tôi gửi bài thơ “Cúc ơi” cho tiết mục “Tiếng thơ” của Đài Tiếng nói Việt Nam. Vào một đêm tháng 8/1968, Đài Tiếng nói Việt Nam vang lên bài thơ “Cúc ơi” qua giọng đọc của nghệ sỹ Văn Thành. Tôi tình cờ mở đài nghe được.
______
(1)Trích lời bài hát “Đường ra mặt trận”, nhạc Hoàng Hiệp, lời thơ Chính Hữu.
(Nguyên cán bộ kỹ thuật Đội TNXP N55-P18 năm 1965-1971)
Ảnh, video: P.V & tư liệu
thiết kế: huy tùng