Nếu người cho thuê, cho mượn biết được người thuê, mượn tài khoản sử dụng vào việc vi phạm pháp luật mà vẫn cố tình cho thuê, cho mượn thì sẽ là hành vi đồng phạm. (Ảnh minh họa)
Trả lời:
Tài khoản ngân hàng do ngân hàng mở cho khách hàng. Việc mở tài khoản ngân hàng cho phép khách hàng gửi tiền vào tài khoản này để thực hiện một số mục đích như tiết kiệm, thanh toán, chuyển tiền. Tài khoản ngân hàng gắn liền với nhân thân của mỗi người nên việc sử dụng tài khoản thực hiện các giao dịch phải là chủ tài khoản.
Bên cạnh đó, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm trước các giao dịch dân sự mà mình xác lập và chịu trách nhiệm làm việc với cơ quan có thẩm quyền khi phát sinh hành vi vi phạm pháp luật hoặc khi cơ quan Nhà nước yêu cầu. Do đó, nếu chủ tài khoản cho người khác sử dụng tài khoản của mình để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Theo điểm h, khoản 2, Điều 5 Thông tư số 23/2014/TT-NHNN năm 2014 (đã được sửa đổi, bổ sung) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định: chủ tài khoản thanh toán không được cho thuê, cho mượn tài khoản thanh toán của mình. Trong trường hợp, kể cả người thuê, mượn tài khoản không sử dụng vào việc phạm pháp thì người cho thuê, cho mượn cũng vẫn có thể bị xử phạt theo quy định tại khoản 5, khoản 6, Điều 26 Nghị định 88/2019/NĐ-CP năm 2019 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng (đã được sửa đổi, bổ sung).
Nghị định số 143/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 88/2019/NĐ-CP quy định: phạt tiền từ 40 - 50 triệu đồng đối với hành vi: thuê, cho thuê, mượn, cho mượn tài khoản thanh toán, mua, bán thông tin tài khoản thanh toán với số lượng từ 1 tài khoản thanh toán đến dưới 10 tài khoản thanh toán mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự; phạt tiền từ 50 - 100 triệu đồng đối với hành vi: thuê, cho thuê, mượn, cho mượn tài khoản thanh toán, mua, bán thông tin tài khoản thanh toán với số lượng từ 10 tài khoản thanh toán trở lên mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 17 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đồng phạm là có từ hai người trở lên cố ý thực hiện một hành vi phạm tội. Nếu người cho thuê, cho mượn biết được người thuê, mượn tài khoản sử dụng vào việc vi phạm pháp luật mà vẫn cố tình cho thuê, cho mượn thì sẽ là hành vi đồng phạm. Trong trường hợp thực sự không biết về mục đích thuê, mượn tài khoản của mình để thực hiện hành vi phạm tội thì không phải đồng phạm.