Môn Hạ Sảnh ấn được làm bằng đồng, cao 8,5 cm, kích thước mặt 7,3 cm x 7,3 cm, niên hiệu Long Khánh 5, Trần Duệ Tông (năm 1377). Năm 1962, ấn được phát hiện tại huyện Hương Khê, Hà Tĩnh và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2012. Ấn được tạo ba cấp, núm hình chữ nhật, chỏm cong giống hình bia đá.
Hai cạnh của lưng ấn khắc hai dòng chữ Hán (kiểu chữ Chân): Môn Hạ Sảnh ấn (ấn của Sảnh Môn Hạ) và Long Khánh ngũ niên ngũ nguyệt nhị thập tam nhật tạo (chế tạo vào ngày 23 tháng 5, niên hiệu Long Khánh thứ 5, đời vua Trần Duệ Tông, năm 1377).
Đây là một trong những ấn biểu hiện quyền lực của Nhà nước phong kiến, dùng để đóng những văn bản hành chính quan trọng của triều đình nhà Trần, từ thời vua Trần Duệ Tông về sau. Sảnh Môn Hạ là một trong 3 sảnh, cơ quan cao nhất của hệ thống chính quyền trung ương nhà Trần, và là cơ quan thân cận của nhà vua, có nhiệm vụ giữ bảo ấn, truyền lệnh của vua tới các quan và các công việc lễ nghi trong cung.
Mặt ấn vuông, đúc nổi 4 chữ Hán (kiểu chữ Triện): Môn Hạ Sảnh ấn. Môn Hạ Sảnh ấn là chiếc ấn đồng hiện biết có niên đại sớm nhất và nội dung rõ ràng nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần. Cho tới nay, những phát hiện về ấn đồng của các triều đại phong kiến Việt Nam rất ít. Vì thế, đây cũng là hiện vật đặc biệt quý hiếm trong di sản văn hóa dân tộc.
Ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo được làm bằng vàng, cao 6,3 cm; dày 1,1 cm; rộng 10,84 cm x 10,84 cm và nặng 2,35 kg. Ấn được đúc 1709, thời Lê Trung Hưng và trở thành bảo vật quốc gia năm 2016. Đây là chiếc ấn có niên đại sớm nhất trong lịch sử tồn tại của nhà Nguyễn.
Ấn hình vuông, núm ấn là tượng nghê vờn ngọc, đầu ngẩng cao, quay về bên trái, vây lưng nổi hình đao mác. Hai bên lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán, bên trái là Kê bát thập kim, lục hốt, tứ lạng, tứ tiền, tam phân (cộng vàng 8 tuổi, nặng 6 thỏi, 4 lạng, 4 tiền, 3 phân); bên phải là Vĩnh Thịnh ngũ niên, thập nhị nguyệt sơ lục nhật tạo (chế tạo vào ngày 6 tháng 12 năm Vĩnh Thịnh 5, tức năm 1709 dưới triều vua Lê Dụ Tông). Cạnh dưới khắc 9 chữ Hán: Lại bộ Đồng Tri Qua Tuệ Thư giám tạo (quan trông nom việc chế tạo là Đồng Tri bộ Lại Qua Tuệ Thư). Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Mặt ấn đúc chữ Hán (kiểu chữ Triện) Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo (vật báu của chúa Nguyễn nước Đại Việt trấn giữ lâu dài). Đời Vua Gia Long (1802-1819), bảo ấn được chọn làm báu vật truyền ngôi của vương triều Nguyễn và được lưu giữ rất cẩn trọng. Tại chùa Thiên Mụ (thành phố Huế) còn lưu dấu kim bảo này trên tấm bia do chúa Nguyễn Phúc Chu cho dựng năm 1715. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Ấn Hoàng đế Tôn thân chi bảo được làm bằng vàng, cao 11,9 cm; mặt ấn 13,6 cm x 13,7cm x 13,6 cm x 13,7 cm; dày 1,9 cm và nặng gần 9 kg. Ấn được đúc vào niên hiệu Minh Mệnh thứ 8 (1827), được triều đình nhà Nguyễn chuyển giao cho Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1945 và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2021.
Ấn tạo thành hai cấp hình vuông, quai là tượng rồng uốn khúc, đầu vươn về phía trước, hai sừng dài, đuôi xòe 9 dải hình ngọn lửa, chân rồng 5 móng. Trên lưng ấn khắc hai dòng chữ Hán với bên phải là Minh Mệnh bát niên thập nguyệt cát nhật tạo (Đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 8, 1827). Bên trái là Thập tuế kim, trọng nhị bách tam thập tứ lượng tứ tiền tam phân (vàng 10 tuổi, nặng 234 lạng 4 tiền 3 phân).
Mặt ấn đúc nổi 6 chữ Triện: Hoàng đế Tôn thân chi bảo. Đây là một trong những ấn được vua Minh Mệnh sau khi lên ngôi, tiếp tục cho đúc thêm để bổ sung vào hệ thống ấn tín của hoàng đế và vương triều. Ấn hiện có trọng lượng lớn nhất trong bộ sưu tập ấn triện bảo vật hoàng cung triều Nguyễn cũng như của các triều đại phong kiến Việt Nam hiện biết. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Ấn ngọc Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ được làm bằng ngọc màu trắng gọi là bạch ngọc, cao 14,5 cm, dày mặt 4,3 cm, rộng mặt 12,8 cm x 13,2 cm, nặng hơn 2,6 kg. Ấn ra đời năm Thiệu Trị thứ 7, thời Nguyễn (1847) và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2017.
Ấn gồm hai phần: quai ấn và ấn. Quai ấn chạm khắc hình rồng và được thể hiện dưới dạng rồng cuộn (rồng ổ), đầu ngẩng cao, chân 5 móng, đuôi xoắn.
Đây là chiếc ấn ngọc thứ 3 của vua Thiệu Trị, cũng là ấn ngọc quý và lớn nhất trong sưu tập Bảo vật cung đình triều Nguyễn. Bản thân nhà vua làm lễ Đại tự cho khắc chữ trên mặt ấn ngọc này. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Mặt ấn hình vuông khắc nổi 9 chữ Hán (kiểu chữ Triện): Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ (Ấn ngọc truyền quốc của nước Đại Nam nhận mệnh lâu dài từ Trời).
Ấn dùng trong Đại lễ Tế Giao hàng năm ở Đàn Nam Giao (Kinh đô Huế), và dùng đóng trên những bản sắc mệnh ban cho các chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn cho làm hơn 100 chiếc ấn (làm bằng vàng, bạc thì gọi là Kim bảo, chế tác bằng ngọc thì gọi là Ngọc tỷ nhưng về sau không phân biệt rõ). Trong đó, riêng thời vua Minh Mạng (1820-1840) và thời vua Tự Đức (1848-1883), mỗi thời có đến 15 chiếc ấn.
Mới đây, Việt Nam đã đàm phán thành công nhằm hồi hương ấn Hoàng đế chi bảo của vua Minh Mạng từ Pháp.