Ngày 2/9/1945, trong bầu không khí phấn khởi không gì diễn tả nổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Việt Nam độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Lời tuyên bố cho thấy quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ độc lập. Chính ngọn cờ ấy đã dẫn đường cho việc thành lập tổ chức tiền thân của Đảng và Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức lực lượng làm cách mạng trong cao trào 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945. Lịch sử đã nhìn những biến động ấy như một quá trình mà đỉnh cao là Cách mạng tháng Tám 1945.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình – Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (Ảnh tư liệu)
Bởi lý do quan trọng đó nên tiếp cận văn bản Tuyên ngôn độc lập, trước hết phải ghi nhớ những biến động chính trị đầu thế kỷ XX để hiểu về khát vọng độc lập, giá trị của trí tuệ Hồ Chí Minh và định hướng xây dựng nhà nước Việt Nam mới. Từ đó, mỗi người tâm huyết hơn đối với sứ mệnh xây dựng đất nước hôm nay với ý thức rằng, hậu duệ sẽ đánh giá những bước đi của quá khứ.
Cũng với tinh thần “biết ơn”, nhắc tới Tuyên ngôn độc lập, mỗi người phải ghi nhớ sâu sắc dấu ấn cá nhân của người chấp bút khi Người đã sử dụng “bộ lọc vĩ đại” (chữ dùng của GS Mai Quốc Liên) đúc kết các tiến bộ của nhân loại, nổi bật là văn minh phương Tây với tinh thần căn bản là cá nhân bình đẳng, để phục vụ cho lợi ích dân tộc.
Khi viện dẫn bản tuyên ngôn năm 1776 của nước Mỹ và tuyên ngôn của Cách mạng Pháp năm 1791 trong Tuyên ngôn độc lập là Người bày tỏ hiểu biết sâu sắc chân lý về bình đẳng, tự do và muốn truyền nhận thức ấy tới đồng bào. Đằng sau lời khẳng định các quyền căn bản ấy cũng là cam kết về đảm bảo các quyền con người khi chính thể mới vận hành.
Cũng từ tinh thần các quyền căn bản mà nền dân chủ cộng hòa đã được chính thức hóa qua cuộc bầu cử toàn dân ngày 6/1/1946. Với việc “hưởng dụng quyền dân chủ” (Hồ Chí Minh), quốc dân đã bầu 333 đại biểu vào Quốc hội, trong đó, Việt Minh chiếm 120 ghế, 70 ghế thuộc các đảng phái khác và 143 ghế không đảng phái. Từ đó về sau, với tư cách là người đứng đầu đất nước, Hồ Chí Minh đã tiến hành nhiều biện pháp để thực hành dân chủ rộng rãi mà mấu chốt là xây dựng chính phủ đoàn kết dân tộc.
Rộng hơn một bản tuyên ngôn, thông qua lời lẽ tuyên bố và luận tội kẻ thù, Hồ Chí Minh đã khơi dậy trong đồng bào ý chí đấu tranh chống áp bức và xây dựng tinh thần ủng hộ chính quyền non trẻ. Cần nhớ rằng, thời điểm này, ý thức về quốc gia, chính thể vẫn còn mơ hồ trong rất nhiều giai tầng do bấy lâu trong đêm trường nô lệ và chưa thoát khỏi thân phận “con dân” thuộc ý thức hệ phong kiến; hơn nữa, nội tình đất nước còn phức tạp về mặt chính trị, đảng phái. Đánh thức ý thức bản thân, ý thức về lòng tự trọng với quốc gia độc lập là bước đi quan trọng trong phương pháp thuyết phục, vận động quần chúng.
Bác Hồ và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bên ao sen trong dịp Người về thăm Hà Tĩnh ngày 15/6/1957 (Ảnh tư liệu)
Điều này góp phần lý giải tại sao khi đọc tuyên ngôn, Hồ Chí Minh dừng lại hỏi: “Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?”. Cách thực hành giữa đọc văn bản và hỏi cho thấy tầm nhận thức sâu rộng về dân chủ của Hồ Chí Minh (xưng hô: Tôi và đồng bào; khoảng cách tâm thế giữa người đứng đầu và dân chúng). Đây cũng là cách “dân vận khéo” được vận dụng một cách linh hoạt, cởi mở.
Lại phải nhớ rằng, trước đó, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là những người vận động quần chúng khéo léo nhất. Họ thường tản mát trong đội quân cày cuốc, đốn củi, trong các bản làng và thôn xóm để lan rộng tinh thần ủng hộ…
Nhà sàn và ao cá Bác Hồ ngày nay là điểm tham quan thu hút du khách trong và ngoài nước
Một điều quan trọng nữa của bản tuyên ngôn mà chúng ta phải luôn ghi nhớ, ấy là văn bản chính luận mẫu mực. Văn bản cho thấy Hồ Chí Minh là người vừa có tầm tư tưởng rộng lớn, vừa có khả năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy.
Hồ Chí Minh trước khi là một chính trị gia đã là một trí thức chân chính, một tâm hồn khoáng đạt và giàu lòng tự trọng. Học trò của Người, cũng trong “trường” văn hóa ấy, cùng với sự ảnh hưởng từ Người, đã ghi tên vào lịch sử với tư cách là những trí thức hoạt động chính trị: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, thậm chí cả Cù Huy Cận, Tố Hữu…
------------------------------------
* Will & Ariel Durant (Nguyễn Hiến Lê dịch), Bài học của lịch sử, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006, tr.11.