Ở nhiều khía cạnh, Seawolf được xem là F-22 phiên bản tàu ngầm khi được đánh giá là tốt nhất thế giới, nhưng chi phí “khủng” lại trở thành thách thức chính trong việc sử dụng rộng rãi loại tàu ngầm này.
Seawolf được xem là F-22 phiên bản tàu ngầm. Ảnh: National Interest
Đối phó với mối đe dọa từ tàu ngầm Liên Xô
Cuối những năm 1980, Hải quân Mỹ đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Liên Xô nhận được thông tin tình báo rằng Hải quân Mỹ có thể lần theo dấu vết các tàu ngầm của nước này thông qua tiếng ồn lớn phát ra từ chân vịt. Kết quả là Liên Xô đã tìm kiếm các loại máy móc tiên tiến của phương Tây để chế tạo ra các loại chân vịt tốt nhất. Năm 1981, công ty Toshiba của Nhật đã bán dây chuyền sản xuất chân vịt cho Liên Xô thông qua công ty Kongsberg của Na Uy.
Đến giữa những năm 1980, các máy móc mới của Liên Xô bắt đầu có hiệu quả. Tàu ngầm lớp Akula mới đã giảm được tiếng ồn đáng kể. Một nguồn tin chính phủ nói với Los Angeles Times rằng “các tàu ngầm của Liên Xô hoạt động bớt ồn hơn sau khi sử dụng động cơ của Toshiba. Với các cải tiến mới, tàu ngầm lớp Akula có thể hoạt động ở độ sâu tới 600 mét, trong khi các tàu ngầm hàng đầu của hải quân Mỹ - tàu ngầm lớp Los Angeles, chỉ có thể hoạt động ở độ sâu khoảng 200 mét.
Đối phó với mối đe dọa của tàu ngầm Akula, Hải quân Mỹ đã “đáp lại” bằng tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Seawolf. Tàu ngầm “sói biển” được thiết kế với khung thân hợp kim thép HY-100 dày 5cm, cải thiện khả năng chịu áp lực khi lặn sâu. Thép HY-100 cũng cứng hơn 20% so với thép HY-80 được sử dụng ở lớp Los Angeles. Kết quả là, Sói biển có khả năng lặn sâu tới 600 mét, và độ sâu “tới hạn” từ 730-900 mét.
Tàu ngầm Seawolf được thiết kế ngắn hơn một chút so với các loại tàu ngầm trước đó, chỉ khoảng 107 mét, nhưng lại rộng hơn 20%, với bề ngang lên tới 12 mét. Độ rộng này khiến Seawolf có trọng lượng nặng hơn so với các phiên bản trước, với độ giãn nước 12.158 tấn.
Tàu ngầm sử dụng lò phản ứng hạt nhân Westinghouse S6W, vận hành 2 turbine hơi nước với tổng công suât 52.000 mã lực. Seawolf là tàu ngầm hàng đầu của Mỹ sử dụng động cơ phản lực thay vì chân vịt - một đặc tính sau này được sử dụng với tàu lớp Virginia.
Seawolf có khả năng di chuyển với tốc độ 18 hải lý/h trên mặt nước và tốc độ tối đa 35 hải lý/h khi lặn, và chạy ở chế độ không tiếng ồn với tốc độ 20 hải lý/h.
“Thợ săn” bí mật
Tàu ngầm được thiết kế trở thành “thợ săn” thực sự, và có 8 ống ngư lôi, gấp đôi so với các tàu ngầm giai đoạn đầu. Seawolf có thể mang tới 50 ngư lôi hạng nặng Mark 48, tên lửa chống hạm Sub-Harpoon và tên lửa Tomahawk.
Độ ồn của tàu ngầm Seawolf thấp hơn 10 lần so với tàu Los Angeles phiên bản cải tiến và thấp hơn tới 70 lần so với lớp Los Angeles phiên bản đầu tiên. Tốc độ chạy ở chế độ không tiếng ồn của Seawolf cũng gấp ggôi so với các tàu ngầm tiền nhiệm.
Theo National Interest, Hải quân Mỹ tiết lộ rất ít thông tin về các tàu ngầm của nước này, đặc biệt là “Sói biển”. Trang web chính thức về các tàu này bị chặn và lần cuối cùng USS Seawolf xuất hiện trong một bức ảnh chính thức là năm 2009.
Thông thường, các tàu ngầm thường làm nhiệm vụ do thám, phóng tên lửa tấn công khủng bố, triển khai biệt kích theo đường biển.. nhưng với Seawolf, không ai biết nhiệm vụ chính của nó là gì.
Hiệu quả vượt trội tất nhiên cũng đi kèm với chi phí vượt trội. Chương trình Seawolf ước tính tốn khoảng 33 tỷ USD cho 12 chiếc tàu ngầm, một chi phí không thể chấp nhận được trong bối cảnh Liên Xô tan rã năm 1991 và mối đe dọa của tàu ngầm Akula không còn. Cuối cùng, Mỹ chỉ chế tạo 3 chiếc tàu ngầm Seawolf với tổng chi phí 7,3 tỷ USD.
Việc giảm độ ồn tối đa của tàu ngầm lớp Seawold cũng để lại cho Hải quân Mỹ những ý tướng cải tiến tàu ngầm USS Jimmy Carter nhằm hỗ trợ các chiến dịch bí mật.
Tàu ngầm USS Jimmy Carter được bổ sung thêm Nền tảng đa nhiệm (MMP) với khả năng triển khai và thu hồi các phương tiện điều khiển từ xa hoặc phương tiện lặn không người lái, hỗ trợ đặc nhiệm SEAL và các đội thợ lặn làm nhiệm vụ dưới nước.
Mặc dù Seawolf là tàu ngầm vượt trội cả về hiệu quả cũng như chi phí, nhưng tư tưởng Chiến tranh Lạnh ở thời điểm phát triển dự án chấp nhận hiệu quả cao đi kèm chi phí “khủng” để giải quyết những mối đe dọa lớn.
Sau này, dự án tàu lớp Virginia thời hậu Chiến tranh Lạnh buộc Hải quân Mỹ phải giảm chi phí trong khi vẫn phải đảm bảo hiệu quả tốt hơn.
Dù ít ỏi về số lượng, nhưng hạm đội Seawolf vẫn là một phần rất hữu dụng trong lực lượng tàu ngầm của Hải quân Mỹ, đem lại cho những khả năng mà lớp Virginia không thể đáp ứng.