Giữ nghề làm nón Đan Du
Tôi là Nguyễn Văn Sau (76 tuổi, trú ở thôn Liên Miệu, xã Kỳ Thư), đã có hơn 60 năm gắn bó với nghề làm nón. Từ thời niên thiếu, tôi đã được cha mẹ truyền nghề. Bên cạnh việc đồng áng, nghề làm nón giúp gia đình tôi có thêm thu nhập. Gắn bó với nghề cả cuộc đời, tôi không nhớ mình đã làm được bao nhiêu chiếc nón.
Tôi là Nguyễn Văn Sau (76 tuổi, trú ở thôn Liên Miệu, xã Kỳ Thư), đã có hơn 60 năm gắn bó với nghề làm nón. Từ thời niên thiếu, tôi đã được cha mẹ truyền nghề. Bên cạnh việc đồng áng, nghề làm nón giúp gia đình tôi có thêm thu nhập. Gắn bó với nghề cả cuộc đời, tôi không nhớ mình đã làm được bao nhiêu chiếc nón.
Còn đây là vợ tôi, bà Lê Thị Nơ (72 tuổi). Vợ chồng tôi bén duyên nhau cũng từ nghề nón. Tuy đã lớn tuổi nhưng cả hai không bỏ được nghề. Một phần để kiếm thêm thu nhập, một phần vì nhớ nghề, muốn giữ gìn nghề đã nuôi sống người dân bao đời nay. Lớp trẻ bây giờ phần lớn không còn mặn mà với nghề nữa, tôi cũng có chút buồn, nhưng tin rằng làng nghề không bị mai một.
Còn đây là vợ tôi, bà Lê Thị Nơ (72 tuổi). Vợ chồng tôi bén duyên nhau cũng từ nghề nón. Tuy đã lớn tuổi nhưng cả hai không bỏ được nghề. Một phần để kiếm thêm thu nhập, một phần vì nhớ nghề, muốn giữ gìn nghề đã nuôi sống người dân bao đời nay. Lớp trẻ bây giờ phần lớn không còn mặn mà với nghề nữa, tôi cũng có chút buồn, nhưng tin rằng làng nghề không bị mai một.
Cụ này là Nguyễn Thị Hương, hàng xóm của gia đình chúng tôi. Cụ Hương năm nay 85 tuổi, có tiếng may nón đẹp từ hồi còn trẻ. Lên 5-6 tuổi, cụ đã bắt đầu học làm nón, đến nay cũng ngót nghét gần 80 năm gắn bó với nghề. Hôm nay, cụ sang cùng tham gia làm nón với vợ chồng tôi.
Cụ này là Nguyễn Thị Hương, hàng xóm của gia đình chúng tôi. Cụ Hương năm nay 85 tuổi, có tiếng may nón đẹp từ hồi còn trẻ. Lên 5-6 tuổi, cụ đã bắt đầu học làm nón, đến nay cũng ngót nghét gần 80 năm gắn bó với nghề. Hôm nay, cụ sang cùng tham gia làm nón với vợ chồng tôi.
Muốn làm một chiếc nón lá Đan Du, việc đầu tiên là chọn tre để uốn vành nón. Tôi thường sử dụng tre trong vườn để làm vành. Tre cần thân nhỏ, độ già vừa phải để đảm bảo dẻo dai khi uốn vành. Nhà nào không có tre thì có thể ra chợ Điếm (xã Kỳ Thư) mua thân cây đùng đình về làm.
Muốn làm một chiếc nón lá Đan Du, việc đầu tiên là chọn tre để uốn vành nón. Tôi thường sử dụng tre trong vườn để làm vành. Tre cần thân nhỏ, độ già vừa phải để đảm bảo dẻo dai khi uốn vành. Nhà nào không có tre thì có thể ra chợ Điếm (xã Kỳ Thư) mua thân cây đùng đình về làm.
Để có chiếc nón lá hoàn hảo, người thợ phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá, phơi lá, vuốt lá. Lá làm nón tùy mỗi vùng miền và tùy làng nghề; có thể dùng lá dừa, lá mật cật, lá buông, lá cọ, lá đọt. Tranh thủ thời tiết hanh nắng, tôi và vợ đưa lá ra phơi để đạt độ khô nhất định trước khi đưa lá đi hơ nóng, vuốt thẳng.
Để có chiếc nón lá hoàn hảo, người thợ phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá, phơi lá, vuốt lá. Lá làm nón tùy mỗi vùng miền và tùy làng nghề; có thể dùng lá dừa, lá mật cật, lá buông, lá cọ, lá đọt. Tranh thủ thời tiết hanh nắng, tôi và vợ đưa lá ra phơi để đạt độ khô nhất định trước khi đưa lá đi hơ nóng, vuốt thẳng.
Lá làm nón (lá đọt) có hai loại: lá trắng và lá xanh. Lá nón dài khoảng 50cm, được người dân lấy trên vùng rừng khu vực thị xã Kỳ Anh và cả ở tỉnh Quảng Bình đưa về bán. Một cuống khoảng 1-7 lá, mỗi bó khoảng 45 cuống, giá bán 25.000 đồng.
Lá làm nón (lá đọt) có hai loại: lá trắng và lá xanh. Lá nón dài khoảng 50cm, được người dân lấy trên vùng rừng khu vực thị xã Kỳ Anh và cả ở tỉnh Quảng Bình đưa về bán. Một cuống khoảng 1-7 lá, mỗi bó khoảng 45 cuống, giá bán 25.000 đồng.
Để may nón không thể thiếu dây cước trắng. Dây cước này tôi thường lên chợ Điếm để mua. Chợ Điếm là nơi bán dụng cụ làm nón duy nhất trên địa bàn, chỉ họp vào ngày chẵn (âm lịch) hằng tháng, vì vậy, thường mỗi lần đi chợ, tôi sẽ tranh thủ mua dùng cho cả tháng.
Để may nón không thể thiếu dây cước trắng. Dây cước này tôi thường lên chợ Điếm để mua. Chợ Điếm là nơi bán dụng cụ làm nón duy nhất trên địa bàn, chỉ họp vào ngày chẵn (âm lịch) hằng tháng, vì vậy, thường mỗi lần đi chợ, tôi sẽ tranh thủ mua dùng cho cả tháng.
Sau khi chọn được lá tốt, chúng tôi mang lá đi vuốt thẳng, bằng cách dùng một miếng gang đặt trên bếp lò được đốt nóng, lửa vừa độ. Sau đó, đặt lá nón lên miếng gang, dùng khăn vải thấm ướt vuốt cho đến khi lá thẳng bóng, nhưng không ngả vàng rồi đem phơi, ủ khô sao cho lá luôn giữ màu xanh - trắng tự nhiên.
Sau khi chọn được lá tốt, chúng tôi mang lá đi vuốt thẳng, bằng cách dùng một miếng gang đặt trên bếp lò được đốt nóng, lửa vừa độ. Sau đó, đặt lá nón lên miếng gang, dùng khăn vải thấm ướt vuốt cho đến khi lá thẳng bóng, nhưng không ngả vàng rồi đem phơi, ủ khô sao cho lá luôn giữ màu xanh - trắng tự nhiên.
Để làm được điều đó, người thợ phải biết sử dụng lực kết hợp nhuần nhuyễn giữa tay đè và tay vuốt. Công việc này khá cầu kỳ và cũng là khâu quyết định đến độ bền và tính thẩm mỹ của chiếc nón.
Để làm được điều đó, người thợ phải biết sử dụng lực kết hợp nhuần nhuyễn giữa tay đè và tay vuốt. Công việc này khá cầu kỳ và cũng là khâu quyết định đến độ bền và tính thẩm mỹ của chiếc nón.
Tiếp đến là công đoạn tạo hình nón gồm: quấn vòng nón, cắt lá nón, khâu nón và làm vành nón.
Tiếp đến là công đoạn tạo hình nón gồm: quấn vòng nón, cắt lá nón, khâu nón và làm vành nón.
Vành nón chính là xương sống của nón. Vành nón phải đều tắp, không được méo mó, xộc xệch thì mới tạo ra được những chiếc nón lá đẹp.
Vành nón chính là xương sống của nón. Vành nón phải đều tắp, không được méo mó, xộc xệch thì mới tạo ra được những chiếc nón lá đẹp.
Sau công đoạn xếp vành lên khung là công đoạn lợp (có nơi gọi là xây) lá trên khung. Khâu này rất quan trọng, đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm mới xoay lá đều, đẹp. Mỗi chiếc nón có từ 2 hoặc 3 lớp lá. Những chiếc lá được vợ tôi xếp ngay ngắn lên mô nón. Khi lợp lá, phải thật sự khéo léo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hay xô lệch. Sau đó, sẽ dùng một cái vành, chụp lên bên ngoài mô nón để giữ cho lá nằm cố định, giúp chằm được dễ dàng.
Sau công đoạn xếp vành lên khung là công đoạn lợp (có nơi gọi là xây) lá trên khung. Khâu này rất quan trọng, đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm mới xoay lá đều, đẹp. Mỗi chiếc nón có từ 2 hoặc 3 lớp lá. Những chiếc lá được vợ tôi xếp ngay ngắn lên mô nón. Khi lợp lá, phải thật sự khéo léo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hay xô lệch. Sau đó, sẽ dùng một cái vành, chụp lên bên ngoài mô nón để giữ cho lá nằm cố định, giúp chằm được dễ dàng.
Tiếp đến, người thợ sẽ đính một cây kim ở phần chóp nón để giữ cho phần lá mới xếp nằm đúng vị trí, sau đó tiếp tục chèn lá xung quanh thân nón.
Tiếp đến, người thợ sẽ đính một cây kim ở phần chóp nón để giữ cho phần lá mới xếp nằm đúng vị trí, sau đó tiếp tục chèn lá xung quanh thân nón.
Giai đoạn chằm (hay còn gọi là khâu) nón là phần quan trọng nhất. Để làm nên một chiếc nón bền, đẹp, đòi hỏi người khâu phải có đôi tay khéo léo giữ cho các lớp lá không rách và giúp chiếc nón được phẳng, không tạo nên nếp nhăn hoặc lồi lõm.
Giai đoạn chằm (hay còn gọi là khâu) nón là phần quan trọng nhất. Để làm nên một chiếc nón bền, đẹp, đòi hỏi người khâu phải có đôi tay khéo léo giữ cho các lớp lá không rách và giúp chiếc nón được phẳng, không tạo nên nếp nhăn hoặc lồi lõm.
Người thợ cầm kim cũng phải thật mềm mại, mỗi mũi kim phải thẳng, đều như thêu từ trong ra ngoài, khoảng cách giữa những mũi kim vừa phải và giấu đi được những mối chỉ nối thì mới tạo ra sản phẩm đẹp. Mỗi ngày, vợ tôi hay cụ Hương chỉ làm được tối đa 1 chiếc nón thành phẩm loại đẹp (hay còn gọi là nón cưới), loại nón dùng để lao động thì có thể làm 2 chiếc. Nón được làm ra có giá bán từ 50-70.000/chiếc, tùy loại.
Người thợ cầm kim cũng phải thật mềm mại, mỗi mũi kim phải thẳng, đều như thêu từ trong ra ngoài, khoảng cách giữa những mũi kim vừa phải và giấu đi được những mối chỉ nối thì mới tạo ra sản phẩm đẹp. Mỗi ngày, vợ tôi hay cụ Hương chỉ làm được tối đa 1 chiếc nón thành phẩm loại đẹp (hay còn gọi là nón cưới), loại nón dùng để lao động thì có thể làm 2 chiếc. Nón được làm ra có giá bán từ 50-70.000/chiếc, tùy loại.
Khâu cuối là nức vành, đây là công đoạn khá quan trọng. Tôi sẽ vót 1 cọng nan có thân dẹp gọi là cây tiến, cặp vào vành nón số 16 để khi nức, vành nón được tròn và chắc chắn, nón sử dụng được lâu bền. Ngoài ra, vợ tôi còn trang trí bên trong chóp nón bằng chỉ thêu màu đỏ, xanh, hồng và quét dầu bóng để đảm bảo độ bền, chống thấm nước trước khi đem bán.
Khâu cuối là nức vành, đây là công đoạn khá quan trọng. Tôi sẽ vót 1 cọng nan có thân dẹp gọi là cây tiến, cặp vào vành nón số 16 để khi nức, vành nón được tròn và chắc chắn, nón sử dụng được lâu bền. Ngoài ra, vợ tôi còn trang trí bên trong chóp nón bằng chỉ thêu màu đỏ, xanh, hồng và quét dầu bóng để đảm bảo độ bền, chống thấm nước trước khi đem bán.
Nét riêng của nón lá Đan Du rất dễ nhận biết - đó là thanh mảnh và nhẹ nhàng, được kết hợp với những khuôn hình vẽ các loài hoa vừa đẹp, vừa bền, được nhiều người ưa thích. Con gái làng Đan Du xưa khi đi lấy chồng thường mang theo nghề và cứ thế, nón lá Đan Du lan tỏa ở nhiều miền quê.
Nét riêng của nón lá Đan Du rất dễ nhận biết - đó là thanh mảnh và nhẹ nhàng, được kết hợp với những khuôn hình vẽ các loài hoa vừa đẹp, vừa bền, được nhiều người ưa thích. Con gái làng Đan Du xưa khi đi lấy chồng thường mang theo nghề và cứ thế, nón lá Đan Du lan tỏa ở nhiều miền quê.
Tôi rất vui khi những năm gần đây các cấp, ngành đã quan tâm hỗ trợ phát triển nghề truyền thống. Tháng 7/2021, UBND Kỳ Thư đã thành lập Tổ hợp tác thu mua và sản xuất nón lá Trung Giang với 11 thành viên. Đây là nơi chị em phụ nữ hỗ trợ nhau làm nón, cùng nhau giữ lại nghề truyền thống cho thế hệ sau.
Tôi rất vui khi những năm gần đây các cấp, ngành đã quan tâm hỗ trợ phát triển nghề truyền thống. Tháng 7/2021, UBND Kỳ Thư đã thành lập Tổ hợp tác thu mua và sản xuất nón lá Trung Giang với 11 thành viên. Đây là nơi chị em phụ nữ hỗ trợ nhau làm nón, cùng nhau giữ lại nghề truyền thống cho thế hệ sau.
Tôi đã chứng kiến nhiều thành viên trong tổ hợp tác mang cháu nhỏ đi để dạy thêm nghề làm nón với mong muốn giữ nghề truyền thống. Được biết, hiện nay, xã Kỳ Thư còn khoảng 275 hộ theo nghề làm nón. Sản phẩm làng nón chúng tôi không chỉ phục vụ người dân các vùng lân cận mà còn được tiêu thụ tại các tỉnh miền Nam và khu vực Tây Nguyên.
Tôi đã chứng kiến nhiều thành viên trong tổ hợp tác mang cháu nhỏ đi để dạy thêm nghề làm nón với mong muốn giữ nghề truyền thống. Được biết, hiện nay, xã Kỳ Thư còn khoảng 275 hộ theo nghề làm nón. Sản phẩm làng nón chúng tôi không chỉ phục vụ người dân các vùng lân cận mà còn được tiêu thụ tại các tỉnh miền Nam và khu vực Tây Nguyên.
Điều mà người dân làng nón Đan Du, Kỳ Thư chúng tôi mong muốn nhất là sản phẩm có đầu ra ổn định. Cần có thêm chính sách, cách làm để hỗ trợ người làm nón giữ nghề, cũng là giữ nét văn hóa truyền thống của làng nghề nón lá, hát ví Đan Du.
Điều mà người dân làng nón Đan Du, Kỳ Thư chúng tôi mong muốn nhất là sản phẩm có đầu ra ổn định. Cần có thêm chính sách, cách làm để hỗ trợ người làm nón giữ nghề, cũng là giữ nét văn hóa truyền thống của làng nghề nón lá, hát ví Đan Du.