Để tìm lại những dấu tích này, chúng tôi theo chân ông Phan Công Kiền - CCB xã Kỳ Phong (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh)
Trong cuốn “Kỳ Anh phong thổ ký” của Tri huyện Lê Đức Trinh viết năm Bảo Đại thứ 5 (1930) có ghi: “Ninh quận công Trịnh Toàn, trú quân dưới chân Đèo Ngang đã đắp lũy ở núi Từ Lĩnh thôn Xuân Sơn, để cầm cự với quân phương Nam (Nhà Nguyễn). Lại có “Hộc đong quân’ ở thôn Hữu Lễ, tổng Cấp Dẫn, bên dưới gò “Hỏa hiệu”, dài rộng mỗi phía 10 trượng, dùng để đong quân. Hiện nay di tích đang còn”.
Được biết, khi vào cai quản Nghệ An (An - Tĩnh), Ninh quận công Trịnh Toàn hết sức chăm lo công việc “Đào hào lũy, đựng pháo đài, đài tải cung cấp lương thực, vũ khí... Hầu hết các thành lũy, đồn bảo trước đây đều được khôi phục lại. Một số đồn lũy mới được xây dựng, nhân dân quen gọi là “Thành ông Ninh”. (Lịch sử Nghệ Tĩnh, Tập I, NXB Nghệ An, 1984, trang 248).
Trong số những công trình ấy, Trịnh Toàn cho xây “Đấu lường quân” tại vùng đất bằng phẳng dưới chân núi Lạc Sơn, làng Hữu Lễ, tổng Cấp Dẫn (làng Hữu Lễ, nay là thôn Trung Phong, xã Kỳ Phong, huyện Kỳ Anh).
Một góc của Đấu lường quân hiện nay.
Một cửa của Đấu lường quân.
“Đấu lường quân”, “Hộc đong quân” hay còn gọi là “Lượng quân đấu”, một hình thức đo lường để kiểm tra quân số binh lính dưới thời phong kiến do Trịnh Toàn xây đắp ở Hữu Lễ, nhân dân thường gọi là “Đấu ông Ninh”.
Đấu được xây đắp trên một vùng đất rộng, hình vuông, mỗi cạnh dài 10 trượng; thành đấu cao khoảng 2m, chân thành đấu rộng khoảng 6 – 8 m; bốn phía bên ngoài thành đấu có hào sâu bảo vệ.
Dấu tích hào bảo vệ bên ngoài Đấu lường quân.
Đấu có 4 cửa: Đông, Tây, Nam, Bắc; chính giữa trên thành đấu có “Vọng lâu” để người chỉ huy đứng điểm quân.
Trải qua mưa gió bào mòn, con người cày xới, trồng trọt nên các bờ thành đấu bị thấp xuống rất nhiều, nhưng hình chiếc đấu vẫn còn, các góc thành đấu vẫn vuông vức, diện tích mặt sân vẫn bằng phẳng.
Bên ngoài thành đấu, phía Bắc có một miếu thờ Thổ Thần. Miếu này theo nhân dân kể lại trước được xây cao ba bậc như cái bục thờ, cách miếu khoảng 50m về phía Bắc, nhân dân còn xây một miếu thờ Ninh Quận công Trịnh Toàn.
Phần móng còn sót lại của miếu Thổ Thần
Cả hai miếu thờ này hàng năm nhân dân đều có dâng hương, lễ bái đầy đủ. Tuy nhiên, trước đây có người cho rằng dưới chân các miếu ấy có cất dấu vàng bạc nên đã đào trộm; do đó, hiện nay chỉ còn nền móng.
Hiện tại, toàn bộ diện tích đất trong và ngoài “Đấu lường quân” đang được giao cho một hộ dân trồng cây lâm nghiệp. Mong các nhà chức trách tổ chức khảo sát, hoạch định, gìn giữ di tích có giá trị lịch sử này.
Theo sử sách, Ninh Quận công Trịnh Toàn là con trai út của Thanh Đô Vương Trịnh Táng thời Lê – Trịnh. Năm 1656, ở Kỳ Anh (thuộc trấn Nghệ An, An - Tĩnh) là nơi giao tranh ác liệt của hai bên Trịnh – Nguyễn. Quận chúa Nguyễn thường vượt Đèo Ngang sang đánh nhau với quân Trịnh. Quân Trịnh nhiều lần bại trận, phải lui về Yên Trường, Bắc sông Lam để bảo toàn lực lượng. Trước tình hình đó, Trịnh Táng đã cử con trai Ninh Quận công Trịnh Toàn làm: “Khâm sai”, “Tiết chế” tổng chỉ huy đường bộ và đường biển với tất cả quyền hành để cai quản Nghệ An, chống lại quân nhà Nguyễn”. (An Tĩnh cổ lục, NXB Nghệ An, 2005, trang 242) Ninh Quận công Trịnh Toàn là vị tướng trẻ “Khôn ngoan và dũng cảm” biết “Hậu đãi tướng sĩ, yêu mến quân dân, lòng người đều phục.” (Sách đã dẫn) Nhờ vậy, mà Trịnh Toàn đã chỉ huy quân lính đánh thắng quân Nguyễn nhiều trận, ổn định tình hình trấn Nghệ An. |