Từ xa xưa, việc xây dựng thành trì luôn được chính quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương chú trọng, xem đó là công việc trọng đại của quốc gia. Thành Hà Tĩnh cũng được xây dựng với sự quan tâm đặc biệt của người đứng đầu đất nước, lúc bấy giờ là vua Minh Mạng.
Một góc hào thành Hà Tĩnh. Ảnh: Huy Tùng
Địa danh Hà Tĩnh xuất hiện từ năm 1831, khi vua Minh Mạng trong một cuộc cải cách hành chính trên quy mô toàn quốc, đã tách 2 phủ Hà Hoa và Đức Thọ của trấn Nghệ An, thành lập nên tỉnh Hà Tĩnh. Đây là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của Hà Tĩnh với tư cách là một tỉnh.
Sau khi được thành lập, một yêu cầu được đặt ra là cần phải có thành trì để đóng lỵ sở của tỉnh. Năm Quý Tỵ, Minh Mạng thứ 14 (1833), nhà vua đã cho đắp thành đất Hà Tĩnh. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 88, mặt khắc 24 mô tả rất rõ vị trí địa lý cũng như hình thế, chiều dài của thành và quan phụ trách xây thành.
Quyển 88, mặt khắc 24
Theo đó: “Tháng Giêng đắp thành đất tỉnh Hà Tĩnh (thành mở 4 cửa tiền, hậu, tả, hữu, mỗi mặt đều dài 140 trượng). Trước kia khi chia đặt tỉnh hạt, Tổng đốc, Tuần phủ cùng với Giám thành chọn được chỗ xã Trung Tiết, huyện Thạch Hà, địa thế cao ráo, rộng rãi, đằng trước có núi Cảm Sơn, lại có một dải sông dài chảy quanh phía trước, vòng sang bên tả, trên thông với sông Nại Giang, dưới thông ra cửa Luật. Đó là một khu đất đẹp. Họ bèn xin đóng thành ở đấy, duy có nước sông hơi mặn, đến đâu phải đào giếng ở đó. Vua sai đình thần bàn lại rồi cho thi hành. Đến bấy giờ lấy 3.000 quân lính ở 2 tỉnh Nghệ - Tĩnh ủy cho Tổng đốc Tạ Quang Cự trông coi mọi việc”.
Dấu tích thành Hà Tĩnh. Ảnh: Google Maps
Tháng 3, vua sai Bộ Binh truyền dụ Đổng lý việc xây thành Hà Tĩnh là Tổng đốc Tạ Quang Cự rút những biền binh mà Nghệ An đã phái đi trước, về tỉnh lỵ, rồi chọn lấy 1.000 quân trong tỉnh còn sung sức, không cứ đương ở ban hay đã hạ ban phải chăm huấn luyện thêm đợi kỳ ra quân, đặc cách sai Thự Thống chế Thần sách Hữu dinh là Tôn Thất Bằng thay Tạ Quang Cự làm Đổng lý việc xây thành Hà Tĩnh.
Hệ thống hào phía đông thành Hà Tĩnh. Ảnh: Huy Tùng
Vào mùa hè, vùng đất Hà Tĩnh có khí hậu rất khắc nghiệt, từ đó cũng sinh ra nhiều dịch bệnh, dân phu đắp thành nhiều người bị bệnh, còn có người bị chết. Biết được điều đó, nhà vua đã ra lệnh cho mua nhiều vị thuốc, sai lương y điều trị. Nếu có kẻ nào chết thì mỗi người được cấp một tấm vải và 3 quan tiền.
Cửa Hậu thành Hà Tĩnh xưa, nay là đường Nguyễn Hữu Thái. Ảnh: Huy Tùng
Tháng 6, việc xây thành Hà Tĩnh đã xong, nhà vua ban thưởng cho những người tham gia, từ quan phụ trách đến dân phu. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 95, mặt khắc 12: “Thưởng cho Đổng lý Tống Phước Lương và Tôn Thất Bằng do Kinh phái đi và từ Đốc, Phủ, Quản vệ trở xuống đều được gia cấp, kỷ lục, tấm sa và bạc có thứ bậc khác nhau. Lại sai các tỉnh thần ấy lấy tiền kho ra thưởng cho dân phu làm thuê. Quảng Trị 4.000 quan, Quảng Nam và Hà Tĩnh mỗi tỉnh 6.000 quan”.
Quyển 95, mặt khắc 12
Nhà vua quan tâm sâu sát đến việc đắp thành chứ không chỉ nghe lời tâu của một người. Chính vì vậy, mỗi quyết định đưa ra đều hợp tình, hợp lý với lòng yêu thương dân như con. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 97, mặt khắc 21: “Thự Tuần phủ Hà Tĩnh là Lê Dục Đức, tâu nói:“Con đường phụ trách quanh thành và dinh thự, kho tàng hiện đương sửa chữa. Tính công thấy vượt hơn số dự trù trước là trên 4 vạn công. Vậy xin trách cứ và những người làm thuê”.
Quyển 97, mặt khắc 21
Vua dụ: “Ta nghe nói dân tỉnh ấy đến làm việc với tấm lòng sốt sắng như con làm việc cho cha, vốn không phải là lười nhác, chỉ vì gặp mưa nhiều, việc làm phí tổn hơn lên, đến nỗi không được như hạn định. Đó là vì sức không tới thôi. Vả lại, ta từ trước đến nay, một lòng yêu dân, chưa từng đem sức dân dùng phí, vậy sao lại nỡ trút cho dân ta những công việc lực dịch chưa xong này? Vậy chuẩn cho cứ y theo thể lệ thuê mướn, cấp trả tiền và gạo”.
Đường Lý Tự Trọng hiện nay là lối vào cửa Hữu thành Hà Tĩnh xưa. Ảnh: Huy Tùng
Như vậy, mặc dù gặp khó khăn về thời tiết, dịch bệnh nhưng với sự quan tâm của vua Minh Mạng, thành Hà Tĩnh đã được đắp xong trong vòng nửa năm. Đây là công trình thể hiện tinh thần chung sức, chung lòng của vua, quan triều Nguyễn và nhân dân Hà Tĩnh.
Tài liệu tham khảo: Hồ sơ H22/89, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV Hồ sơ H22/97, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV Hồ sơ H22/98, Mộc bản Triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, tập 3, NXB Giáo dục, 2001 |