Theo Bộ Y tế, ngoài vắc xin của Công ty AstraZeneca Việt Nam đã đặt mua (30 triệu liều) và được COVAX viện trợ (30 triệu liều) cho năm 2021, nếu muốn có đủ vắc xin cho mọi người dân có chỉ định có vắc xin tiêm chủng, theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long, Việt Nam cần 150 triệu liều vắc xin trong năm nay.
Do đó trong tuần này, Bộ Y tế sẽ tiếp tục đàm phán mua vắc xin ngừa COVID-19. Các hãng vắc xin mà Việt Nam đang thương thảo là vắc xin của Nga và Mỹ.
Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho nhập khẩu vắc xin, lần đầu tiên Việt Nam đã đầu tư hệ thống kho lạnh âm sâu (-40 đến -86 độ C). Hiện đã có 3 kho lạnh như vậy của một hệ thống tiêm chủng đầu tư tại TP.HCM, Đà Nẵng và Hà Nội và được Bộ Y tế cấp phép.
Tại mỗi kho lạnh âm sâu sẽ có thêm 1 kho rã đông (nhiệt độ được kiểm soát luôn dưới 8 độ C) để đảm bảo vắc xin được rã đông an toàn trước khi đưa vào sử dụng.
Tính đến ngày 8-2, thế giới có 11 loại vắc xin ngừa COVID-19 đã được Cơ quan Quản lý dược phẩm châu Âu (EMA), Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) phê chuẩn và nhiều quốc gia cho phép lưu hành/nhập khẩu khẩn cấp. Việt Nam cũng đã phê duyệt nhập khẩu khẩn cấp 1 vắc xin trong số này.
Ngoài ra còn 237 vắc xin đang trong quá trình phát triển, trong đó Việt Nam có 3 sản phẩm, 2/3 đang ở giai đoạn thử nghiệm trên người, sản phẩm còn lại dự kiến thử nghiệm trên người từ tháng 3-2021.
Hầu hết vắc xin ngừa COVID-19 yêu cầu bảo quản ở 2-8 độ C, nhưng cũng có sản phẩm yêu cầu bảo quản, vận chuyển ở nhiệt độ âm sâu. Điều đó khiến cho kế hoạch mua vắc xin và vận chuyển, bảo quản vắc xin của nhiều nước gặp khó khăn.
Tuy nhiên Việt Nam đã chuẩn bị điều kiện về kho lạnh, kho đặc biệt này là dạng rất đặc biệt: “kho trong kho”, và sẵn sàng đàm phán với tất cả các nhà sản xuất có vắc xin có sản phẩm đủ điều kiện và đã được phê duyệt.
Dự kiến mũi vắc xin tiêm chủng rộng rãi (đầu tiên cho nhóm nguy cơ cao) sẽ thực hiện tại Việt Nam trong tháng 3 tới, sau khi vắc xin về đến Việt Nam vài ngày tới và được đánh giá chất lượng.
Trước đó, hôm 17-12-2020, Việt Nam đã thử nghiệm vắc xin nội địa trên người lần đầu tiên và cho đến nay sau hơn 2 tháng đánh giá cho thấy hiệu quả rất khả quan.