Rối loạn tiêu hóa (RLTH) dẫn đến bị tiêu chảy có nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy tùy từng nguyên nhân mà có thuốc khác nhau để điều trị. Một số thuốc trị tiêu chảy chỉ có tác dụng điều trị triệu chứng chứ không giải quyết được căn nguyên của bệnh nên có thể người bệnh bị tiêu chảy kéo dài. Do đó nếu bị tiêu chảy thường xuyên, cần đến cơ sở khám bệnh để làm đầy đủ các xét nghiệm mới có hướng điều trị đúng bệnh.
Việc sử dụng thuốc kháng sinh để trị tiêu chảy là cần thiết nếu xác định đúng nguyên nhân gây tiêu chảy là do nhiễm khuẩn đường ruột. Các loại thuốc kháng sinh hay dùng trong các bệnh liên quan đến đường tiêu hóa có nhiều loại với các cách dùng khác nhau. Sau đây chỉ giới thiệu một số thuốc kháng sinh hay dùng đường uống cho người bị RLTH và tiêu chảy:
Vibrio cholerae gây bệnh tả. |
Tetraxyclin và doxicylin:
Kháng sinh có tác dụng tốt với tiêu chảy do Vibrio cholerae. Vì thức ăn ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc nên phải uống thuốc một giờ trước khi ăn hoặc 2 giờ sau ăn. Tránh uống sữa khi dùng thuốc này vì sữa tương kỵ với các tetraxyclin. Nên uống thuốc với nhiều nước, uống ít nhất với 1 cốc nước to để tránh kích ứng thực quản. Cần uống thuốc ở tư thế đứng và không nên nằm ngay sau khi uống thuốc. Không dùng chung tetraxyclin với penicillin, thuốc giảm đau opioid, vitamin nhóm B, các thuốc có ion kim loại như calci, magiê, mangan, nhôm, sắt... Vì lý do đó nên không được uống nước khoáng đóng chai khi dùng nhóm kháng sinh này. Không dùng tetraxyclin cho phụ nữ mang thai, đang cho con bú và trẻ em dưới 8 tuổi vì gây biến màu răng vĩnh viễn và ảnh hưởng tới sự phát triển của xương. Khi dùng thuốc dài ngày cần thực hiện các xét nghiệm định kỳ đánh giá chức năng gan, thận và tạo huyết.
Co-trimoxazol (biseptol, TM, berlocid):
Đây là thuốc nhóm sulfamid mà thực chất là hai kháng sinh phối hợp gồm sulfamethoxazol và trimethoprim với tỷ lệ 5/1. Trên thị trường có nhiều dạng bào chế với nồng độ tương ứng là 400/80 hoặc 200/40 hoặc 100/20 với các dạng viên nén hoặc hỗn dịch. Thuốc ức chế 2 giai đoạn liên tiếp của chuyển hóa acid folic, có tác dụng diệt vi khuẩn. Thận trọng với bệnh nhân suy thận nặng, suy gan nặng, trẻ em dưới 2 tuổi. Không dùng cho phụ nữ có thai, đang cho con bú, thiếu máu hồng cầu do thiếu acid folic. Thuốc cũng có nhiều tác dụng không mong muốn: như buồn nôn, nôn, viêm lưỡi, ngứa, nổi ban da...
Ciprofloxacin (ciprobay, ciplox):
Là một đại diện của kháng sinh nhóm quinolon rất nhiều dạng bào chế để uống hoặc tiêm, dạng viên nén có rất nhiều loại với hàm lượng khác nhau từ 100mg đến 1g. Thuốc hấp thụ nhanh và dễ dàng ở ống tiêu hóa. Thức ăn và các thuốc trung hòa acid làm ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc. Thuốc có tác dụng với các vi khuẩn gây bệnh đường ruột nhưng cần dùng đúng bệnh, đúng liều để tránh kháng thuốc. Không dùng cho phụ nữ mang thai và cho con bú. Không dùng cho trẻ dưới 14 tuổi vì thuốc gây thoái hóa sụn ở trẻ đang lớn. Thận trọng dùng thuốc đối với người cao tuổi, người bị động kinh, người bị thương tổn thần kinh trung ương. Nên uống thuốc 2 giờ sau bữa ăn, uống nhiều với nước. Không dùng đồng thời với thuốc có nhôm, magiê, sắt, kẽm, sucrafat, theophyllin … vì những thuốc này làm giảm hấp thụ ciprofloxacin.
Metronidazol (flagyl, klion):
Thuốc có tác dụng tốt trong điều trị tiêu chảy kéo dài do nhiễm Giardia, lỵ cấp tính, áp-xe gan nặng do amip. Khi uống, thuốc hấp thu nhanh, độ khả dụng sinh học là 100%. Thuốc không bị ảnh hưởng bởi thức ăn. Khi tiêm thuốc hấp thụ tương tự như khi uống. Không dùng thuốc khi mang thai (nhất là 3 tháng đầu) và khi đang cho con bú (ngừng cho con bú khi điều trị bằng metronidazol). Không uống rượu khi đang dùng thuốc. Tác dụng phụ thường gặp: buồn nôn, nhức đầu, chán ăn, khô miệng, đau thượng vị, táo bón. Ngừng điều trị khi thấy chóng mặt, lú lẫn tinh thần, bệnh nhân bị bệnh thần kinh trung ương và ngoại biên bệnh có thể nặng thêm.
Trên đây là một số thuốc kháng sinh đường uống hay dùng khi bị RLTH. Tuy nhiên, đối với mỗi trường hợp bị tiêu chảy hay RLTH có sự lựa chọn khác nhau tùy tình trạng bệnh. Cũng như tất cả các thuốc kháng sinh khác, người bệnh không được tự ý dùng mà phải có chỉ định của thầy thuốc trong trường hợp xác định đúng các nguyên nhân gây bệnh do vi khuẩn gây ra. Cần sử dụng đúng loại, theo liều lượng được chỉ định để tránh kháng thuốc.